• Abouts
  • Terms – Conditions
  • Privacy policy
  • Contact
WIKI
  • Sự kiện
  • Khoa học
  • Đời sống
  • Môi trường
  • Giải pháp
  • Làm đẹp
No Result
View All Result
  • Sự kiện
  • Khoa học
  • Đời sống
  • Môi trường
  • Giải pháp
  • Làm đẹp
No Result
View All Result
WIKI
No Result
View All Result
Home Sự kiện

10 kết quả nổi bật trong hoạt động của Bộ KH&CN năm 2005

by Na Na
Tháng Bảy 30, 2021
in Sự kiện, Sự kiện Khoa học
0
SHARES
92
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter

Ngày 19.1.2005, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã công bố 10 kết quả nổi bật trong hoạt động của Bộ năm 2005. Đây là sự bầu chọn của các cán đồ dùng thuộc Bộ trên cơ sở các sự kiện do các đơn vị trong Bộ đề xuất.

1. Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải lao động với Bộ KH&CN và gặp mặt các nhà bác học

10 kết quả nổi bật trong hoạt động của Bộ KH&CN năm 2005

Thủ tướng Phan Văn Khải gặp mặt và lao động với cán bộ KH & CN (Ảnh: tchdkh.org.vn)

Sự kiện này được giới truyền thông và giới khoa học gọi là Hội nghị Diên hồng của ngành KH&CN. Tại buổi lao động với Bộ KH&CN ngày 23.9.2005, Thủ tướng Phan Văn Khải đã kính trọng những đóng góp quan trọng của KH&CN trong phát sinh kinh tế – xã hội, đồng thời khẳng định quyết tâm của Đảng coi sự nghiệp phát sinh KH&CN kết hợp giáo dục – rèn luyện là quốc sách hàng đầu, là nền tảng, động sự đẩy mạnh nền công nghiệp hoá, đổi mới đất nước. Ngày 24.9.2005, Thủ tướng đã có buổi gặp mặt và lao động với gần 500 cán bộ KH&CN đại diện cho các cơ quan nghiên cứu, trường đại học, công ti thuộc các ngành, lĩnh vực. Lần đầu tiên, các đại biểu đại diện cho giới khoa học trong cả nước được trực tiếp bày tỏ với nhà Lãnh đạo nhiều nhất của Chính phủ những tâm hồn, bức xúc của mình trong quá trình làm khoa học, nói lên những điều mong muốn, sự đồng lòng, quyết tâm vì một chủ đích chung duy nhất: Góp sức xây dựng và chấn hưng nền KH&CN tổ quốc, giúp đất nước đi lên, ngày một cường thịnh.

2. Quốc hội thông qua Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT)

Luật này được Quốc hội chính quy thông qua ngày 29.11.2005, có công hiệu thi hành từ ngày 1.7.2006. Với nội hàm gồm 6 phần, 18 chương, 222 điều, Luật SHTT đã đánh dấu một bước hoàn thiện quan trọng của hệ thống pháp luật SHTT Việt Nam về tính thống nhất, toàn diện và đầy đủ, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý cơ bản để nâng lên hiệu quả sự thực hiện quyền, vốn là chỗ yếu của hệ thống bảo hộ SHTT hiện nay, từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động nghiên cứu sáng tạo, sản xuất, kinh doanh trong nước cũng như tiến trình hội nhập và tham gia WTO của Việt Nam. Đây là một đạo luật chuyên môn thống nhất, nguồn cơ bản điều chỉnh các quan hệ về SHTT. Sự ra đời của Luật này không những đáp ứng được nhu cầu của hội nhập, sửa lại những bất cập, đặt cho hệ thống pháp luật về SHTT của tổ quốc gần hơn với các nước mà còn thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, phát sinh thị trường công nghệ.

3. Tổ chức thành công việc xét tặng Giải thưởng Thành phố Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KH&CN

Bộ đã sớm chủ động xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ bá cáo Quy định tạm thời về điều kiện, tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét thưởng và diễn ngôn hướng dẫn về Quy chế xét thưởng, làm cơ sở cho các bộ, ngành và địa phương thực hiện. Quy định này đã bổ sung vào một tỉ số mới, với những tiêu chuẩn rõ ràng, rành mạch, điển hình hơn, nhsiết chặt giá trị khoa học và hiệu quả đem lại cho xã hội (lần đầu tiên đưa vào xét thưởng kiến trúc ứng dụng công nghệ có sáng tạo đặc biệt; tiêu chuẩn xét thưởng đã điển hình hơn so với trước và tách riêng được tiêu chuẩn xét Giải thưởng Thành phố Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước cho cả 3 loại kiến trúc: Nghiên cứu khoa học, nghiên cứu phát sinh và đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ có sáng tạo đặc biệt; mỗi kiến trúc chỉ được đề nghị xét tặng Giải thưởng Thành phố Hồ Chí Minh hoặc Giải thưởng Nhà nước…). Công tác xét thưởng được tổ chức đứng đắn, không thiên vị, tuân thủ Quy định của Thủ tướng Chính phủ. Ngày 30.9.2005, Bộ KH&CN đã tổ chức trọng thể Lễ tặng thưởng cho 12 kiến trúc, cụm kiến trúc đạt Giải thưởng Thành phố Hồ Chí Minh và 41 kiến trúc, cụm kiến trúc đạt Giải thưởng Nhà nước về KH&CN.

4. Chính phủ bá cáo Nghị định 115/2005/NĐ-CP về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập

Đây là Nghị định mở đường cho việc chuyển đổi các tổ chức KH&CN thành tổ chức tự trang trải chi phí và công ti KH&CN. Tư tưởng đổi mới của Nghị định được các nhà bác học kính trọng và so sánh với một cuộc “khoán 10” dự trữa học. Nghị định đã trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm tối đa cho các tổ chức KH&CN (về xây dựng và thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tài sản, tổ chức, biên chế), đảm bảo gắn kết lợi ích của nhà bác học với lợi ích của xã hội. Hiện nay, Bộ KH&CN đang khẩn trương hợp tác xây dựng để sớm bá cáo các diễn ngôn hướng dẫn và trình Chính phủ bá cáo Nghị định về Doanh nghiệp KH&CN.

5. Tổ chức thành công Chợ công nghệ và đồ dùng quê hương lần thứ 2 tại thành phố Thành phố Hồ Chí Minh

Tháng 10.2005, Chợ công nghệ và đồ dùng Việt Nam 2005 đã được tổ chức tại thành phố Thành phố Hồ Chí Minh. Với quy mô và tính chuyên nghiệp áp đảo so với năm 2003, Chợ đã thành công bỏ lại dự báo: Thu hút sự tham gia của 475 đơn vị với trên 2.200 công nghệ, đồ dùng, dịch vụ đã được giới thiệu và chào bán; đã có 159 hợp đồng chính quy được ký kết với tổng có giá lên đến 1.600 tỷ đồng, trong đó 50% là hợp đồng kinh tế với tổng giá trị trên 700 tỷ đồng. Thành công của Chợ công nghệ và đồ dùng quy mô quê hương lần thứ hai đã tiếp tục khẳng định đây là một mô hình năng động, sáng tạo, góp phần hình thành và phát sinh thị trường công nghệ, thúc đẩy mối liên thắt chặt chẽ giữa lực lượng KH&CN trong nước với khối công ti, nhằm nâng lên khả năng công nghệ và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đất nước trước những thách thức của cạnh tranh toàn cầu và hội nhập.

6. Đề án Phát triển thị trường công nghệ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

Ngày 30.8.2005, Đề án Phát triển thị trường công nghệ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 214/2005/QĐ-TTg. Đề án này sẽ tác động mạnh mẽ đến 4 yếu tố cấu thành của thị trường công nghệ: Thúc đẩy bên cung (khu vực nghiên cứu – triển khai), khuyến khích bên cầu (khu vực công ti), phát sinh bên trung gian (người môi giới, tư vấn, đánh giá công nghệ), hoàn thiện môi trường pháp lý để thị trường này hoạt động có hiệu lực. Việc thực hiện thành công Đề án sẽ góp phần tăng nhanh số lượng và phẩm chất các giao thiệp mua bán công nghệ, giúp đạt đến tăng trưởng giá trị giao thiệp công nghệ trung bình 10% mỗi năm trong giai đoạn 2006-2010.

7. Hoàn thành và trình Chính phủ Đề án về Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát sinh KH&CN giai đoạn 2006-2010 với nhiều ý định, cơ chế đổi mới

Tư duy đổi mới đã được thể hiện điển hình trong Đề án, như: Các nhiệm vụ KH&CN phải bắt nguồn từ sự thực nhu cầu phát sinh kinh tế – xã hội; kết quả KH&CN phải được mến mại hóa và bảo đảm hiệu quả kinh tế – xã hội; khuyến khích và ưu tiên các nhiệm vụ KH&CN định hướng tìm kiếm phương thức công nghệ và sớm chuyển cho cho khu vực sản xuất – kinh doanh, qua đó hình thành và phát sinh mối liên kết giữa rèn luyện – nghiên cứu – sản xuất. Đặc biệt, các mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN giai đoạn tới phải phù hợp mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch phát sinh kinh tế – xã hội giai đoạn 2006-2010 và phù hợp mục tiêu đã đề ra trong Chiến lược phát sinh KH&CN đến năm 2010.

8. Ứng dụng thành công kỹ thuật hạt nhân trong nền công nghiệp và thắng thầu ở ngoài

Các nhà bác thuộc lòng Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt (Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam) đã phát sinh được kỹ thuật đánh dấu đồng vị phóng xạ theo dõi sự di chuyển của nước bơm ép phù hợp điều kiện mỏ của Việt Nam. Kỹ thuật này đã được thực hiện ở mỏ Bạch Hổ, Rạng Đông và mới đây, vượt qua 5 nhà thầu ở ngoài (của Anh, Mỹ, Na Uy), các nhà bác học Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt đã được chọn để thực hiện kỹ thuật này tại mỏ Sư Tử Đen. Điều này không chỉ giúp cho ngành dầu khí có được công nghệ phù hợp đặc thù vùng mỏ Việt Nam, thu được những lợi ích kinh tế mà quan trọng hơn, nó đã khẳng định một bước tiến của khoa học năng lượng hạt nhân tổ quốc. Theo tính toán của các nhà bác học, việc ứng dụng kỹ thuật đánh dấu đồng vị phóng xạ mang lại khoản lợi ở mỗi giếng dầu từ 10 đến 15 triệu USD. Khoản lợi ấy còn lớn hơn khi chính các nhà bác học Việt Nam thực hiện được kỹ thuật này. Điều đó thêm một lần khẳng định, với cách đi đúng hướng, những kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực ứng dụng hạt nhân sẽ được áp dụng có hiệu lực cao vào sản xuất và đời sống.

9. Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Chỉ thị số năm0-CT/TW ngày 4.3.2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đẩy mạnh phát sinh và ứng dụng công nghệ sinh học (CNSH) phục vụ nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Chương trình hành động này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 188/2005/QĐ-TTg ngày 22.7.2005, nhằm điển hình hóa các mục tiêu, nhiệm vụ, cách giải quyết; thể chế hóa các ý định trong Chỉ thị 50-CT/TW thành hệ thống diễn ngôn quy định pháp luật, góp phần đưa nhanh Chỉ thị tham gia sống. Theo đó, đến năm 2010, Việt Nam cần tạo ra, tiếp nhận và điều khiển các CNSH chủ yếu; triển khai ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ này vào các lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ sản, y tế, nền công nghiệp chế biến, bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng; tạo ra các kết quả mới bằng CNSH như giống cây trồng, vật nuôi, chủng vi sinh vật học, kết quả chế biến nền công nghiệp…; hình thành và phát sinh các công ti nền công nghiệp sinh học vừa và nhỏ. Mục tiêu đến năm 2020 là cung cấp đủ nguồn nhân lực KH&CN có mức độ cao, điều khiển được CNSH; xây dựng và phát sinh công nghệ tiên tiến và hiện đại về CNSH đạt tiêu chuẩn ở ngoài; hình thành và phát sinh ngành nền công nghiệp sinh học đủ để năng lực sản xuất các kết quả chủ yếu, thiết yếu của nền kinh tế quốc dân.

10. Tham gia chỉ đạo chống dịch cúm gia cầm có hiệu lực (kiểm tra, chỉ đạo các địa phương; chế tạo thành công máy trợ thở cho tuyến huyện)

Trong năm 2005, Bộ KH&CN đã cùng các Bộ: Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công nghiệp, Quốc phòng và Viện KH&CN Việt Nam tích cực triển khai các cách giải quyết công nghệ nhằm góp phần ngăn chặn dịch cúm gia cầm và bảo vệ sức khỏe cho người khi có đại dịch xảy ra. Đặc biệt, Bộ đã quyết định cho triển khai một số nhiệm vụ cấp bách, trong đó đã chế tạo thành công 6/10 máy trợ thở (để sơ cứu người bệnh bị cúm H5N1) cung cấp cho tuyến huyện với giá thành khoảng 7,5 triệu đồng/máy, rẻ hơn so với hàng nhập khẩu như nhau từ 8 đến 10 lần.

Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ KH&CN và Lãnh đạo Bộ đã luân phiên dẫn đầu đoàn công việc xuống các địa phương trực tiếp chỉ đạo việc phòng chống dịch cúm gia cầm tại các tỉnh: Đồng Tháp, tỉnh Long An, Tiền Giang, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, huyện Điện Biên.

Theo Tạp chí họat động khoa học
Previous Post

Châu Âu xây dựng kính thiên văn lớn nhất thế giới

Next Post

Trung Quốc sắp có mặt trời nhân tạo

Related Posts

Lịch sử hài hước của giày cao gót

Tháng Bảy 23, 2022

Những câu chuyện khoa học kỳ lạ nhất năm 2005

Tháng Bảy 23, 2022

Người đầu tiên bay tự do ngoài vũ trụ qua đời

Tháng Bảy 23, 2022

Mỹ thúc đẩy hợp tác khoa học với Việt Nam

Tháng Bảy 23, 2022

Bảo tàng Tương lai – Biểu tượng thế giới mới ở Dubai?

Tháng Bảy 23, 2022

Công ty săn kho báu tìm ra chiếc tàu đắm huyền thoại

Tháng Bảy 23, 2022
Next Post

Trung Quốc sắp có mặt trời nhân tạo

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Giá vàng cập nhật

Pallet Nhựa Kim Anh

Pallet nhựa

QC




Wikitieudung.com

Các bài viết, chủ đề và bình luận trên Wikitieudung.com chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chuẩn đoán hoặc điều trị.

DMCA.com Protection Status

About us

Công ty: WMT

Văn phòng GD: SỐ 3 , phường Tân Tạo a, Bình. Tân TP HCM

 

Liên Hệ Quảng cáo

Mail: honghung1410@gmail.com

Zalo: 0932.297.101

Facebook: www.fb.com/

Trang

  • Trang chủ
  • Abouts
  • Terms – Conditions
  • Privacy policy
  • Contact

© 2021 WKT - theme by WKT.

No Result
View All Result
  • Sự kiện
  • Khoa học
  • Đời sống
  • Môi trường
  • Giải pháp
  • Làm đẹp

© 2021 WKT - theme by WKT.