-
Thời điểm: 1238-1527
-
Địa điểm: Granada, Andalúia, Tây Ban Nha
Vương quốc Granada thuộc vương triều Nasrid là thành trì sau rốt của Al-Andalus, sự thống trị của Hồi giáo trên bán đảo Iberia hình thành cạnh phía Tây của thế giới Hồi giáo thời Trung cổ. Tiếp theo trận đánh quyết định Las Navas de Tolosa (1212), các thành phố quan trọng của Al-Andalus đều bị tín đồ Cơ đốc xâm chiếm: Cordoba, kinh thành trước đây của vua Hồi, thất thủ vào năm 1236 và Seville năm 1248. Chỉ còn lại vương quốc Granada tí hon là tự chủ khi người sáng tạo vương triều Nasrid, Muhammad I (1232-72), tự xưng mình là một chư hầu của Vua xứ Castile. Vương quốc Granada tồn tại đến năm 1492, lúc ấy mới bị các hoàng đế Cơ đốc xâm chiếm, Ferdinand xứ Aragon và Isabella xứ Castile. Trong cùng năm người ta xác định châu Mỹ, đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ Reconquista của Tây Ban Nha và thời kỳ xâm hiếm Tân thế giới bắt đầu.
Cung điện Alhambra nhìn từ hướng Nam (Ảnh: cs.cmu.edu)
Một khẳng định nền văn hóa Hồi giáo
Thành tựu quan trọng nhất của các vua Hồi vương triều Nasrid chắc chắn là cung điện Alhambra, có ý đồ quảng bá nền văn hó, ưa thích và chỉnh đốn nền văn minh Hồi giáo. Sự khẳng định đặc trưng này liên kết thân tình với nhận thức sự yếu kém của chính mình của Granada và có lẽ vì lí do này, cung điện Alhambra bị bao trùm một tâm sinh lí học luyến tiếc quá khứ, không thưởng và thi vị. Thực ra, một trong những đặc trưng nổi bật nhất là dùng thơ để trang trí phòng ốc và không gian, một số bài thơ do thi sỹ cung điện nổi tiếng sáng tác như Ibn al-Yayyab, Ibn al-Jatib và Ibn Zamrak.
Chủ đề hồi tưởng quá khứ cũng có thể nhìn thấy trong kết cấu kiến trúc của cung điện. Ngoài sự bóng gió đặc biệt về Hồi giáo, cung điện còn mang nhiều hình thù đặc trưng của kiến trúc Hy Lạp, Đế chế La Mã cổ đại. Vì thế cung điện Alhambra không chỉ có thơ mà còn gồm có kiến thức uyên bác kiên quyết về Hy-La kinh điển.
Lịch bản anh hùng ca công
Cung điện Alhambra xây dựng trên đỉnh đồi trông xuống thành phố Granada.
![]() |
Sư tử nổi tiếng, nhìn từ một trong những mái cổng trong cung. 4 rãnh dẫn nước cùng đổ vào vòi phun nằm ở giữa, với 12 con sư tử làm gối đỡ (Ảnh: classics.nd.edu) |
Tên cung điện lấy từ al-Qalat al Hamra, có nghĩa là “lâu đài đỏ”, vì màu gạch và đất lấy từ pháo đài trước kia. Khu phức hợp được quấn quanh bằng một tường bao bảo vệ và cách biệt cung điện với thành phố. Những khu cổ nhất của pháo đài có niên đại từ thế kỷ XI và XII, nhưng chính Muhammad I mới là người bắt đầu khởi công xây dựng một cung điện làm nơi định cư vị trí này. Nhiều nguồn tư liệu môn lịch sử biện giải vào năm 1238, “vua Hồi đi đến cung điện gọi là Alhambra, điều tra, đánh dấu căn bản lâu đài và theo dõi kiến trúc ra sao. Việc thi công các vách tường hoàn tất trước cuối năm. Ông cũng khai một kênh đào dẫn nước từ sông vào”.
Thế kỷ 13 này, Alhambra là mối qubảo đảm đúng mức, mang đặc trưng của kiến trúc quân sự. Vua Hồi đầu tiên muốn dùng cung điện này để ở là Muhammad IV (1303 – 1309), nhưng dưới triều vua Hồi Yusuf I (1333 – 1354) nội thất của một số tháp ở Alhambra được trang trí sôi nổi theo ưa thích của hoàng đế. Thời kỳ này trang trí Torre de Comares (Tháp Comares) và Torre de la Cautiva (tháp giam cầm), bên trong tháp Giam cầm có thể thấy được các bài thơ chữ tạc do thi nhân Ibn al-Yayyab (1274 – 1349) sáng tác để ca ngợi công việc của Yusuf I.
Cung điện Alhambra đạt thời cực thịnh nhất dưới triều vua Muhammad V, cai trị từ năm 1354 đến 1359 và lần thứ 2 từ 1362 đến 1391, triều đại của ông bị chia rẽ do sự bất hòa nội bộ vốn là điều thường thấy trong môn lịch sử Granada. Chính ông là người xây dựng Palacio de los Leones (Cung điện Sư tử), quấn quanh sân có cùng tên cũng như Patio de los Arrayanes (sân Hoa Mua) và nhiều khu vực khác của Palacio de Comares.
Thiết kế và tổ chức
Số liệu thực tế:
Họa tiết trang trí trên tường chạm khắc trên lớp vữa không xoa láng.
(Ảnh: home.cs.utwente.nl)
Không còn tư liệu nào đề cập trực tiếp đến quá trình thi công, vì thế không thể có được bất cứ thông tin nào về kiến trúc sư xây dựng các cung điện trong vương triều Nasrid, thợ lành nghề tham gia hay thậm chí chi phí xây dựng. Cung điện Alhambra là một kiến trúc nặc danh. Cũng không có thông tin chính xác về sinh hoạt hàng ngày trong cung điện hay ngay cả tên gọi ban đầu của phòng ốc và phòng lớn. Vì thiếu nguồn tư liệu tiểu tiết nên việc xác định niên đại của nhiều bộ phận khác nhau trong cung điện Alhambra chỉ có thể khẳng định bằng cách sử dụng giả thiết và xét đoán bề ngoài.
Việc xây dựng khu phức hợp cung điện chủ yếu xây bằng gạch, cùng với bê tông và xi măng. Đá chạm áp dụng kha khá ít, đá đá granit áp dụng hạn chế hầu như chỉ dùng để lót đường đi và làm cột, mũ cột. Trang trí trải khắp các vách, trần và sàn người cho thuê yếu làm bằng gỗ, gốm sứ và vữa trát không xoa láng. Một minh họa tuyệt vời của công đoạn chạm khắc gỗ là trần nhà của Sala de Comares hay Sala de Embajadores (Phòng Sứ thần).
![]() |
Cung điện Generalife: Công viên, có rãnh dẫn nước ở giữa và vòi phun, trồng hoa mua, cam chanh, cây bách, hoa hồng và các loài hoa khác (Ảnh: travelaboutinc) |
Ngói gốm rực rỡ lấp kín nhiều khoảng không gian nội ngoại thất, thành phần hình học của ngói với tất cả sự phản chiếu và màu chói. Nhưng chắc chắn đặc điểm ấn tượng nhất của cung điện Alhambra là kiến trúc trát vữa không xoa láng, trang trí bằng các motif thực vật và những câu đề khắc, vữa trát không xoa láng cũng áp dụng khi làm trần nhà đẹp mắt muqarnas trong Sala de las Dos Hermanas (Phòng 2 chị em) và Sala de los Abencerrajes.
Trong khu có tường bao của cung điện Alhambra có 3 phần riêng biệt: Alcazaba, nằm trên điểm tối đa, áp dụng cho các chủ đích quân sự khắt khe, Medina và cung điện. Có thời lên đến 7 cung điện, nhưng chỉ có 2 cung điện còn lại thể hiện tốt nhất cung điện Alhambra của vương triều Nasird: Palacio de Comares và Palacio de los Leones. Các sân hình thành một yếu tố thứ tự quan trọng, nước trong hình thù các bể chứa và vòi phun cũng đóng vai trò quan trọng.
Sân trong Palacio de Comares (Patio de los Arrayanes) có hình chữ nhật, được cắt ngay bởi một bể chứa chạy dọc theo hướng Bắc Nam. Phức tạp và tinh vi hơn nhiều là Patio de los Leones, trong cung điện có cùng tên. Sân này quấn quanh bằng một mái cổng có tổng số 124 cột đá granit, tập trung quanh Vòi phun Sư tử nổi tiếng. Kết cấu hình chữ thập được nhbóp chặt bằng các máng nước nước bước xuyên qua cũng như bố trí 4 phòng xung quanh dọc theo các trục ngang dọc.
Gần Alhambra, nhưng bên ngoài vách tường, là cung điện Generalife, na ná một biệt thự nghỉ mát, do vua Hồi Muhammad II (1272 – 1302) xây dựng, và nổi tiếng với công viên, cho thấy trung thành các đặc trưng điển hình nhất của thiết kế công viên kiểu Hồi giáo.
Lịch sử sau này
![]() |
(Ảnh: nmhschool) |
Hầu như suốt thế kỷ 15, từ triều đại của Muhammad V cho đến khi tín đồ Cơ đốc xâm lược, cung điện Alhambra phần đông vẫn giữ nguyên vẻ bề ngoài thế kỷ 14 của mình, không có sự thay đổi nào đáng kể. Sau đó từ năm 1492 trở đi, các nhà cầm quyền Tây Ban Nha bắt đầu một loạt tiến triển kiến trúc có ý tưởnga chính trị tượng trưng ở Granada. Hoàng đế Charles V thậm chí còn in dấu lên vết của mình trên vách tường của cung điện Alhambra. Tác phẩm quan trọng của ông chính là cung điện của ông, do kiến trúc sư Pedro Machuca (1527) thiết kế: kiến trúc theo kiểu kinh điển cùng với trang trí mực thước và sự sắp đặt hình học (một hình tròn bên trong hình vuông) tượng trưng cho sự đối lập có chủ ý giữa phong cách Hồi giáo và Cơ đốc giáo. Charles V không hề sống trong cung điện, tuy nhiên sau triều đại của ông, không xây thêm kiến trúc khác. Tiếp đến chỉ là khôi phục và bảo dưỡng cũng như phá hủy.
Chính những người theo trường phái lãng mạn, và giới họa sỹ Anh nói riêng, là những người xác định cung điện và khiến cho thế giới phương tây chú ý trong thế kỷ 19, lsuy nghĩ hóa và biến cung điện thành một nơi truyền thuyết, thấm đẫm tính ngoại lại và thú vui nhục cảm. Hình ảnh này được cho thấy trong nghệ thuật của David Robert và John Frederick Lewis cũng như trong các trước tác gợi nhớ của Chateaubriand, Théophile Gautier và hơn hết là Washington Irving trong tác phẩm “Con quest of Granada” (1829) và “Tales of the Alhambra” (1832). Đóng góp đáng kể khác trong việc vực dậy nghệ thuật Hồi giáo là của Owen Jones trong tác phẩm Plans, Elevations, Sections and Details of the Alhambra (1842 – 1845). Từ thế kỷ 19, cung điện Alhambra trở thành nơi thu hút du khách nổi tiếng. Năm 1984, cả Alhambra lẫn Generalife đều nằm trong doanh sách Di sản văn hóa thế giới của Unesco.
Kỳ quan của Alhambra không nằm ở tính chất bất hủ, vẻ uy nghiêm hay sự thừa dật, cũng bất công cung điện có bất kỳ sự hợp kết phong cách nào, sau khi xây dựng, phá hủy và xây dựng lại trong những thời kỳ khác nhau. Thay vào đó, nét quyến rũ của Alhambra chủ yếu là sự trang trí phi thường và ở ngọn là nằm trong sự quân bình và hiểu biết sáng suốt mà tự nhiên và kiến trúc cùng mang đến. Khắp nơi trong cung điện, nước và thực vật đều đóng vai trò hài hòa và tích cực.