Cuộc gặp gỡ, lao động giữa Thủ tướng Phan Văn Khải và các nhà bác học Việt Nam diễn ra vào cuối tháng 9 vừa qua được nhiều khán giả làm “Hội nghị Diên Hồng” của KH-CN Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta phải làm gì để thế giới hóa linh hồn đó?
![]() |
Bộ trưởng Bộ Khoa học – Công nghệ (KH-CN) Hoàng Văn Phong |
Bộ trưởng Bộ Khoa học – Công nghệ (KH-CN) Hoàng Văn Phong đã có cuộc trao đổi xung quanh vấn đề này.
Bộ trưởng nghĩ thế nào về ý kiến cho rằng, hiện nay chúng ta mới chỉ phát huy được 20% đến 25% khả năng của đội ngũ cán bộ KH-CN Việt Nam?
Tôi đồng ý là cơ chế hiện này còn trói buộc, bất cập và không huy động được các nhà bác học vắt sức của mình. Nhưng điều đó không có nghĩa là tất cả các nhà bác học đều lao động với 20% đến 25% sức lực, khả năng của mình. Nếu như thế thì những thành tựu KH-CN của Việt Nam đã có từ đâu ra?
Một điều đáng buồn là nhiều nhà bác học cứ đổ lỗi về cơ chế cho Nhà nước, mà không chịu “xông vào” cùng Nhà nước nghiên cứu, tháo gỡ những trở ngại đó. Họ kêu ca, phàn nàn khắp nơi, nhưng không “xắn tay” để lao động gì thiết thực cho nền KH-CN bản quốc.
Tại sao họ biết là cơ chế trở ngại, chỉ phát huy được 20% đến 25% khả năng, mà lại không phấn đấu để làm lớn hơn? Bởi cơ chế chiến lược không thể quyết định được nhận thức của mỗi nhà bác học… Phát huy được bao nhiêu phần trăm, điều quyết định là ở mạnh mẽ, nhận thức của các nhà bác học đối với công việc của mình.
Trong hoạt động KH-CN Việt Nam hiện nay còn đáng kể “vấn nạn” như chạy đề tài, đề án và dùng phí tổn nghiên cứu khoa học để thêm vào thu nhập khiến phẩm chất nghiên cứu thấp hoặc triển khai chậm. Thậm chí, đề tài không thể nghiệm thu được hoặc có nghiệm thu thì chỉ mang tính mô hình, không có phẩm chất. Theo Bộ trưởng, đâu là cách giải quyết căn cơ, toàn diện cho vấn đề này?
Đó chính là hiện tượng “chợ đen” và “đầu cơ” trong hoạt động KH-CN hiện nay. Ở góc độ nào đó, theo tôi do mức lương của những nhà bác học chưa đảm bảo được cuộc sống cho tự tay và gia đình, nên họ mới phải làm vậy. Chúng ta cũng cần thông cảm với họ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc ủng hộ họ đóng kịch “chợ đen” trong nghiên cứu KH-CN. Với một nhà bác học chân chính và có mạnh mẽ họ sẵn có vượt qua mọi trở ngại, hy sinh lợi quyền của mình để đạt được những kết quả tốt, mà không cần đến những cơ chế hay sự đãi ngộ nào.
Chúng ta không thể giải quyết một cách toàn diện được vấn nạn này, bởi ngay những nước tiên tiến cũng có nạn “đầu cơ” KH-CN. Nhưng, khi có những cơ chế, chiến lược phù hợp hơn, đặc biệt là chiến lược lương bổng, đãi ngộ các nhà bác học và biến đổi mới về cơ chế giao, nghiệm thu, đánh giá đề tài KH-CN thì tôi tin trạng thái này sẽ được đẩy lùi.
Một vấn đề luôn được qubảo đảm: làm gì để có thể sớm đưa những tiến bộ KH-CN vào đời sống xã hội, phục vụ sản xuất kinh doanh?
Liên bang Sô-Viết (cũ) là một tấm gương lớn để chúng ta nghiền ngẫm về vấn đề này. Tiềm lực KH-CN mở rộng, nhưng 80% các công trình kiến trúc nghiên cứu của Liên bang Sô-Viết trước đây đều nằm trong “ngăn kéo”. Và, các nước phương Tây đã nộp tiền chuộc lại bản quyền những công trình kiến trúc đó để tạo ra kết quả, công nghệ mới bán lại cho Liên bang Sô-Viết. Cơ chế bao cấp, kế hoạch tập trung quan liêu đã tạo ra điều đó. Với Việt Nam hiện nay, để các công trình kiến trúc KH-CN sớm được áp dụng, triển khai theo tôi cần giải quyết toàn diện những vấn đề sau:
– Trước hết bắt phải thừa nhận các công trình kiến trúc KH-CN cũng là hàng hóa và các nhà bác học là tác giả của chúng, có quyền bán hàng hóa đó, nếu không phạm tội.
– Thứ hai, các nhà bác học cần đổi mới ngẫm nghĩ lao động, gắn mình hơn với đời sống xã hội để hiểu rõ nhu cầu của cuộc sống, từ đó định hướng nghiên cứu của mình, trừ những chương trình khoa học cơ bản được Nhà nước định hướng. Thứ ba, các công ti phải nhận thức được vai trò của KH-CN trong sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là khi việc tham gia WTO đang đến gần.
Nói như vậy, việc hình thành và phát sinh của thị trường KH-CN ở Việt Nam sẽ có tính chất quyết định cho KH-CN Việt Nam phát sinh?
Vừa rồi, Chính phủ đã phê duyệt một loạt đề án, bá cáo các Nghị định liên quan đến KH-CN. Tất cả đều có vai trò quan trọng và mang tính định hướng cho KH-CN Việt Nam trong thời gian tới. Đề án về phát sinh thị trường KH-CN Việt Nam là một trong số đó. Giữa các nhà bác học và công ti cần có một thị trường rõ ràng, cần những nhà người môi giới về KH-CN để đưa bên cung và bên cầu ở lĩnh vực này xích đến gần, hiểu rõ vị trí, vai trò của nhau… Có như vậy, KH-CN Việt Nam mới có thể sớm trở thành “hàng hóa” và đi vào sản xuất kinh doanh được.
Tôi muốn nhsiết chặt đến Nghị định 115 vừa được bá cáo đầu tháng 9 vừa rồi, chỉ rõ về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH-CN công lập. Với sắc lệnh này, tôi tin KH-CN Việt Nam đã được “cởi trói” về cơ chế và sớm phát huy hết được những khả năng tự có. Tất cả điều đó đồng nghĩa với việc các nhà bác học sẽ có nguồn thu nhập chính đáng, đúng với công sứ toàn quyềnc mình bỏ ra. Họ làm ra công nghệ mới, thị trường (bao gồm cả Nhà nước và các công ti có đòi hỏi) sẽ bỏ vốn đầu tư cho họ nghiên cứu, triển khai, hoặc nộp tiền chuộc lại với đúng mức mà thị trường đã sự định giá…
Theo tôi, hiện nay chiến lược cơ bản đã khá thông thoáng. Vấn đề là thực hiện, điều khiển những chiến lược đó ra sao? Nếu tất cả cùng đồng lòng, tôi tin KH-CN Việt Nam sẽ có những bước chuyển mới, tích cực trong thời gian tới!
Xin cảm ơn Bộ trưởng.
Trần Lưu