Một loại khuẩn tưởng như không nguy hiểm lắm, nhưng giờ đây đang trở thành mối đe dọa rất lớn nếu loài người không tìm ra cách.
Klebsiella pneumoniae là một loại khuẩn có khả năng gây nhiễm trùng, nhưng độ nguy hiểm chỉ ở trung bình với nhân thế. Ngay cả trong thời đại kháng thuốc, người ta cũng không tỏ ra quá lo ngại vì K. pneumoniae, vì nó vốn chỉ gây làm tổn hại những người cao tuổi, hoặc đang có hệ miễn dịch yếu thôi.
Tuy nhiên, đây bên trong là một nhận thức sai lầm. Khi phát tác, K. pneumoniae có thể gây ra rất nhiều vấn đề liên quan đến nhiễm trùng, trong đó hiện tượng hoại tử có khả năng giết chết một người khỏe mạnh chỉ trong vòng 1 ngày.
Khuẩn Klebsiella pneumoniae.
Và dựa vào một nghiên cứu mới đây, K. pneumoniae có một dòng khuẩn rất cần được để ý, vì nhiều khả năng nó sẽ trở thành một cơn giấc mơ kinh hoàng của thời đại kháng kháng sinh sắp tới.
Khuẩn gì mà kinh khủng quá vậy?
Thông thường, K. pneumoniae chỉ quanh quẩn trong hệ tiêu hóa của nhân thế. Thi thoảng, nó xuất hiện trên da hoặc miệng, và chẳng gây ra chút ảnh hưởng gì. Chỉ những người vốn đã đang có hệ miễn dịch rất yếu mới bị nó hại mà thôi.
Nhưng rồi mọi chuyện bỗng thay đổi vào thập niên 80, khi cbạo quânc sĩ tìm ra một dòng khuẩn K. pneumoniae khác dữ dội hơn, nguy hiểm hơn xuất hiện tại Đài Loan. Nó chẳng cần vật chủ phải ốm để lộ diện mà cứ âm ỷ ở đó. Để rồi người bệnh bị phù não, sưng gan, và hoại tử diện rộng.
Tìm ra cách để sự phân biệt K. Pneumoniae và hvKp là điều cực kì quan trọng
Chủng khuẩn ấy được gọi là hypervirulent K. pneumoniae (hvKp). Và đáng chú ý, nhân thế vẫn chưa thể nhận ra dấu hiệu hiện diện của nó. Cho đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa rõ các vùng khuẩn K. pneumoniae nào có khả năng trở thành hvKp, để đến khi chúng gây tổn hại nghiêm trọng thì đã muộn.
Trước thực tế này, các chuyên gia từ ĐH Buffalo (Mỹ) đã đưa ra đề xuất được cho là có thể thực hiện được nhất, đó là chế tạo một dạng hóa chất chỉ thị giúp sự phân biệt hai loại khuẩn này.
Cụ thể, Thomas Russo từ ĐH Buffalo cùng rất nhiều chuyên gia trên thế giới đã tạo ra được chất chỉ thị dành cho hvKp. Nó chỉ phản ứng với ADN của vi khuẩn này, và nhờ thế có độ tin cậy rất cao. Dù vậy, đây vẫn chỉ là bước đầu tiên của cả một quá trình, nhằm tìm ra cách giải quyết ổn định và lâu dài nhất.
“Hiện tại, không có bất kỳ phương pháp thử nào để sự phân biệt 2 loại khuẩn” – Russo cho biết.
“Nghiên cứu này cho chúng ta một phương thức rõ ràng, sao cho bất kỳ tổ chức nào cũng có thể tạo ra cách kiểm tra chúng trong phòng thí nghiệm. Nó thực sự rất thiết yếu”.
Trên thực tế thì cụm từ “thiết yếu” vẫn còn là giảm nhẹ. Thực tế cho thấy, các dạng khuẩn kháng thuốc từ K. pneumoniae đã xuất hiện từ vài năm nay, và hậu quả gây ra có thể hoàn toàn nghiêm trọng. Nếu không sớm sự phân biệt, giấc mơ kinh hoàng thực sự sẽ xảy ra nếu hvKp cũng có kháng thể thuốc.
hvKp có thể chuyển sang khuẩn ăn thịt sống, gây hoại tử nghiêm trọng.
Tình hình nghiêm trọng đến mức Tổ chức y tế thế giới WHO đã đặt mục tiêu chế tạo thuốc kháng loại khuẩn này lên mức cần được ưu tiên. Dù hiện tại nó chưa để lại hậu quả đáng chú ý, nhưng nhân thế vẫn đang bị đặt vào tình thế cần cảnh giác.
Theo Russo, việc chỉ cần sự phân biệt hvKp thôi cũng đã là bước thành công rất lớn rồi. Dù vậy, các nhà bác học cần vạch ra một lộ trình rõ ràng, nhằm có được sự lo trước thiết yếu khi thời đại kháng thuốc xảy ra.
hvKp có thể trở thành một cơn giấc mơ kinh hoàng như thế nào?
Có hai con đường để nó xảy ra. Đầu tiên là cả hai dòng khuẩn sẽ cùng xuất hiện, trong đó K. pneumoniae kháng thuốc sẽ thu nhặt và mã hóa lại khả năng ấy, thải nó vào môi trường để hvKp nắm bắt.
Còn cách thứ hai là các loại khuẩn K. pneumoniae bằng cách nào đó hấp thụ được khả năng “ăn thịt sống” của hvKp. Và thực tế, con đường thứ hai này đã xuất hiện rồi.
“Có ít nhất 5 người bệnh đã chết tại Hàng Châu, Trung Quốc vì dạng thứ 2” – Russo chia sẻ.
Có rất nhiều điều bắt phải tìm hiểu về loại khuẩn này. Tại sao nó xuất hiện nhiều ở Á Châu? Đó là nguồn gốc, hay chỉ là do dân số tại đây quá đông? Theo Russo, chúng ta cần thêm nhiều nghiên cứu khác để trả lời dấu chấm hỏi này.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Clinical Microbiology.