Nguyên lý của phương pháp này là tiêm một giản dịch lỏng vào huyệt nhằm kích thích huyệt tại chỗ và điều chữa bệnh toàn thân.
Bác sĩ chuyên khoa 1 Nhâm Chấn Phát, Viện Y dược học dân tộc TP HCM, cho biết thủy châm là sự tham gia giữa phương pháp châm theo niềm tin kinh lạc và thuốc tiêm (tại chỗ hay toàn thân) để nâng cao lên hiệu quả phòng chữa bệnh. Theo đó thầy thuốc tiêm một giản dịch lỏng vào huyệt của người bệnh để kích thích huyệt tại chỗ, kết hợp với thuốc để điều chữa bệnh.
Công dụng của thủy châm trong điều trị suy nhược thần kinh hiệu quả đến 88-90%. (Ảnh minh họa: dongy).
Năm 1954, thầy thuốc Vạn Văn Kế, Bệnh viện Ngạc Thành Hồ Bắc (Trung Quốc) đã kết hợp thủy châm với vitamin B1 chữa nhiều bệnh như viêm khớp kinh niên, xơ gan, di tích bại liệt, nhiều chứng bệnh tâm hồn… Cũng trong thời gian này, cbạo quânc sĩ Lư Loan Khu, Lý Bồi Thành, Đức Tuấn (Thượng Hải) ứng dụng phương pháp thủy châm tại nhiều bệnh viện bệnh xá. Từ năm 1955 thủy châm được dùng rộng rãi trong nhiều bệnh viện ở Trung Quốc.
Nghiên cứu ở Bệnh viện nhân dân số 6 tại Thượng Hải cho thấy công dụng của thủy châm trong điều trị suy nhược thần kinh hiệu quả đến 88-90%, thời gian điều trị cũn cỡn. Nhiều bệnh viện khác cũng báo cáo tác dụng của phương pháp này trong điều trị cao huyết áp, thiên đầu thống, hen suyễn, chân tay tê, đau bại thần kinh, viêm, liệt dương…
Theo thầy thuốc Phát, tại Việt Nam, một số bệnh viện, bệnh xá đã áp dụng thủy châm trong điều trị. Cbạo quânc sĩ dùng vitamin Bl, B6, BI2, Philatop, Novocain tiêm vào vùng thái dương (còn gọi thủy châm huyệt thái dương) chữa nhức đầu, đau đầu; tiêm vào vùng thận để chữa đau ngang lưng di bắn máy bay ban đêm, bệnh tim… Đến nay thủy châm được nghiên cứu mở rộng điều trị đau thần kinh tọa, đau đầu, đau nửa đầu, đau vai gáy, dây thần kinh liên sườn, đau do giảm sút khớp, viêm quanh khớp vai… Phương pháp này được cho là hiệu quả với bệnh cấp tính như choáng và mê man, khó thở, tức thở, đau da dày, đau bụng, đau ruột, tử cung, nhức răng, co giật, động kinh.