Người Do Thái từng có quãng thời gian dài sống dưới ách đô hộ của đế quốc Đế chế Roma, cho đến khi vùng lên nổi dậy vào năm 66, buộc hoàng đế la Mã đưa những quân đoàn thiện chiến nhất đến Jerusalem.
Năm 64 SCN, Gessius Florus trở thành thống đốc vùng Judea (nay là Israel) của Đế chế Roma. Nổi tiếng là người có quan điểm thù địch với cư dân bản địa, Florus không mấy qubảo đảm đời sống tôn giáo của người Do Thái.
Trận vây thành Jerusalem năm 70 được coi là thảm kịch vấy máu nhất môn lịch sử cổ đại.
Khi nguồn thu từ thuế suất giảm mạnh, Florus ra lệnh chiếm của cải ở Đền Thánh của người Do Thái ở thành Jerusalem. Điều này dẫn đến dải sóng phẫn nộ trong dân chúng.
Đền Thánh thờ Thượng Đế, là vị thần tột bậc trong tôn giáo của người Do Thái. Đền Thánh đầu tiên do vua Solomon xây dựng năm 1.000 trước công Nguyên, sau này bị người Babylon phá hủy. Đền Thánh thứ hai được xây dựng vào năm 516 TCN, tồn tại cho đến cuộc tấn công thành Jerusalem của người Đế chế Roma năm 70.
Năm 66, đội quân Đế chế Roma tiến vào Jerusalem, tàn sát 3.600 người. Hành động của Florus tạo thành một nổi dậy của người Do Thái, hay còn gọi là Chiến tranh Do Thái – Đế chế Roma lần đầu tiên.
Cuộc nổi dậy của người Do Thái
Cuộc nổi dậy nguồn gốc từ thành Jerusalem. Người dân ngăn chặn những cống vật được chuyển vào đền để tràn lên Caesar. Không lâu sau, cả thành Jerusalem trở nên sôi sục, trục xuất hoặc sát hại các binh sĩ Đế chế Roma. Cuộc nổi dậy lần lan tỏa ra khắp vùng Judea.
Năm 67, Cestius Callus, thống đốc vùng Syria kề cạnh đem 2 vạn quân đến Judea dẹp loạn. Sau 6 tháng vây thành Jerusalem, Callus thất bại. 6.000 binh sĩ Đế chế Roma tử trận, gồm 5300 bộ binh và 380 kỵ binh. Các vũ khí của quân Đế chế Roma được người Do Thái thu hồi để áp dụng trong các cuộc phòng ngự sau này.
Nero, hoàng đế thứ năm của Đế chế Roma điều Vespasian, một danh tướng thiện chiến và rất có ảnh hưởng lúc bấy giờ đến Judea dẹp loạn.
Vespasian đánh tan phong trào nổi dậy của người Do Thái ở vùng Galilee (nay là phía bắc Israel) và các vùng kề cạnh. Đại quân Đế chế Roma do Vespasian chỉ huy bao vây thành Jerusalem.
Tái hiện một phần thành luỹ thành Jerusalem.
Nhưng trước khi công thành, Vespasian nhận được tin cậy dữ từ Rome. Hoàng đế Nero thình lình qua đời, Vespasian rơi vào guồng tranh giành quyền hành khi các đại quân Đế chế Roma ở các tỉnh phía đông đều coi ông là hoàng đế.
Vespasian nhậm chức hoàng chõ mồm vào năm 70, quay trở về Rome. Ông giao cho con trai là Titus tiếp tục cuộc chinh phạt vùng Judea.
Sau 4 năm giành quyền tự chủ từ tay người Đế chế Roma, cộng đồng người Do Thái ở Jerusalem không đề ra được phương hướng chiến lược đặc thù, thậm chí xảy ra xích mích nội bộ, dẫn đến quân đội có kỷ luật kém, không sẵn có cho các cuộc đối phó về sau.
Trận vây thành vấy máu nhất môn lịch sử cổ đại
Titus đem 7 vạn quân Đế chế Roma, gồm 4 quân đoàn thiện chiến, bắt đầu vây thành Jerusalem vào ngày 14/4/70. Đó cũng là lúc rất nhiều người Do Thái hành hương từ nơi xa đến để tham gia Lễ Vượt Qua (Passover).
Thời điểm cuộc vây thành diễn ra, Jerusalem được phòng thủ bởi gần 4 vạn quân được sẵn có khá tốt. Tường thành mãnh liệt vững chắc, được chia làm 3 lớp, với lớp vành đai cuối cùng bảo vệ Đền Thánh.
Titus áp dụng chiến thuật vây tcó kinh điển thời bấy giờ là chặn mọi nguồn trang bị từ bên ngoài.
Theo ghi chép của nhà sử học nổi tiếng người Do Thái Josephus (37-100), Titus hoàn toàn cẩn thận trong việc đề ra chiến lược công thành. Các quân đoàn Đế chế Roma tập hợp theo vị trí dọc theo các thành luỹ phía bắc và phía tây, binh sĩ được chia làm bảy hàng, kỵ binh ở ba hàng phía sau và cung thủ ở giữa.
Sau khoảng một tháng, chờ đến khi cư dân trong thành rơi vào cảnh đói khát, Titus bắt đầu thực thi. Titus đưa đến Jerusalem một loại vũ khí công thành mà người Do Thái kì lạ, đó là cỗ xe chuyên dụng để phá vỡ tường thành.
Ở 3 vị trí khác nhau, các xe công thành đồng loạt tấn công. Người Do Thái dũng cảm chiến đấu vào ban ngày, ban đêm cố gắng tăng cường các thành luỹ ngày càng suy yếu.
Con đường tiến công thành Jerusalem năm 70 của quân Đế chế Roma.
Đến một thời điểm, lớp tường thành đầu tiên sụp đổ, Titus cùng đội quân tinh nhuệ xông thẳng bên trong.
“Người Do Thái ép buộc triệt thoái tuyến phòng thủ phía sau lớp tường thứ hai. Titus tiếp tục ra lệnh công thành. Trong 5 ngày, cạnh tranh trở nên ác liệt hơn bao giờ hết. Người Do Thái chiến đấu như thể họ sẵn có hi sinh tự tay để đánh bại kẻ thù”, nhà sử học Josephus chép lại.
Đợt công thành thứ hai đơn giản hơn, Titus chỉ mất 5 ngày để buộc quân Do Thái phải rút khỏi lớp tường thành thứ hai.
Titus ban đầu ra lệnh ra lệnh cho các binh sĩ Đế chế Roma không được đốt nhà, không tàn sát dân thường. Nhưng phe chủ chiến của người Do Thái vẫn muốn chiến đấu, họ tìm cách đánh úp quân Đế chế Roma từ khắp mọi nơi.
Sau 3 ngày tiếp theo, người Do Thái bị thúc đẩy tuyến phòng thủ cuối cùng, bảo vệ Đền Thánh. Titus không hề vội vàng, cho binh sĩ nghỉ ngơi, kiểm tra lại giáp trụ, cũng như trả lương cho binh sĩ đầy đủ.
“Tình cảnh khi đó hoàn toàn tồi tệ, nạn đói xảy ra ở khắp nơi. Nhiều người phải ăn thịt chính đồng loại để tồn tại. Những người lẻn ra ngoài tìm kiếm thức ăn ngay bị lính Đế chế Roma bắt sống, tra khảo và đem đóng đinh ngắn trên thánh giá”, nhà sử học Joephus chép lại.
Trong trận công thành vấy máu này, Joephus được Titus cử làm đại sứ thương lượng nhưng người Do Thái kiên quyết không đầu hàng.
Trận đánh trở thành một sự tàn sát người Do Thái.
Sau nhiều mò mẫm cách phá vỡ thành luỹ thứ 3 nhưng không thành, Titus chuyển sang chiến thuật đánh úp vào ban đêm. Giao tranh trên một đoạn tường thành diễn ra suốt từ đêm kéo sang ban ngày, nhưng quân Đế chế Roma đã kiểm soát được một phần tường thành, từ đó từng bước đẩy lùi tuyến phòng thủ người Do Thái.
Mất quyền kiểm soát lớp tường thành thứ 3, mọi nỗ lực phòng thủ đã thất bại. Josephus chép rằng Titus muốn bảo tồn Đền Thánh, nhưng các binh sĩ vì quá tức giận vì đối thủ cứng đầu nên đã đốt đền thờ. Đến ngày 8/9/70, thành Jerusalem nghi lễ thuộc về quyền kiểm soát của quân Đế chế Roma.
Josephus chép rằng hơn 1,1 triệu người dự thiệt mạng trong trận đánh thành vấy máu nhất môn lịch sử cổ đại. Sử gia Do Thái biện hộ số người chết lớn bất thường là do bao gồm những người hành hương đến Jerusalem trong Lễ Vượt Qua. Một tổng số lớn người hành hương bị mắc kẹt trong thành phố và bỏ mạng.
Những người thuộc phe nổi dậy, người già và người ốm yếu đều bị lính Đế chế Roma sát hại, chỉ có 97.000 người bị nô dịch hoá.
Nhà sử học người Mỹ Seth Schwartz từng đưa ra nhận định vào năm 1984, rằng Josephus có thể cường điệu về chữ số người chết, cũng như các ghi chép của nhà sử học này có phần thiên vị cho đế quốc Đế chế Roma.
Sau khi thành Jerusalem sụp đổ, Josephus theo quân Đế chế Roma trở về Rome, trở trưởng thành dân Đế chế Roma. Ông dành quãng thời gian còn lại của cuộc đời để ghi chép về môn lịch sử của người Do Thái.