Khủng long thua xa động vật có vú về khoản sinh sống, và vấn đề chính nằm ở thói quen sinh đẻ của chúng.
Kết quả nghiên cứu mới do Đại học Zurich hợp tác với Hội Động vật học London đã khánh thành bí mật lâu nay về động cơ sâu xa khiến khủng long tuyệt giống. Theo đó, báo cáo đăng trên cơ quan ngôn luận Biology Letters đã tập trung biện hộ những lấy làm lạ như: tại sao cơ thể sống to lớn như vậy lại mang lại những quả trứng bé tí? tại sao những loài khủng long không bay được lại lâm vào trạng thái tuyệt giống, và bí ẩn về khả năng bay lượn trời phú của chim chóc. Cũng từ đó, các chuyên gia xác định được động cơ chính giúp động vật có vú và các loài chim thoát khỏi thảm họa đại hủy diệt cách đây 65,5 triệu năm.
Việc đẻ trứng chứ không đẻ con có thể đã đặt
dấu chấm hết cho loài khủng long – (Ảnh: AFP)
Dù hiện vẫn có những loài chim lớn không bay được như đà điểu, quy mô của chúng làm sao ngang bằng với các loài khủng long khổng lồ cổ xưa. Để nghiên cứu, 2 chuyên gia Daryl Codron và Marcus Clauss của Đại học Zurich (Thụy Sĩ) dựng mô hình của các cộng đồng khủng long và động vật có vú, xếp chúng theo 27 quân hàm quy mô từ nhỏ đến cao nhất. Kế đến, nhóm nghiên cứu áp dụng thuật toán để tìm hiểu chuyện sẽ xảy ra giữa cơ thể sống trưởng thành và hậu duệ của chúng, dựa trên quy mô và sự xung đột sinh sống. Trong khi động vật hữu nhũ lớn có thể đẻ con to, khủng long phải đối mặt với với những giới hạn vật lý vì thói quen đẻ trứng. Điều này có nghĩa là thậm chí những khủng long to nhất, có thể nặng đến 150 tấn, lại sinh ra hậu duệ nhỏ xíu.
Nếu cho là trọng lượng khoảng 4 tấn, mẹ khủng long nặng hơn con mới nở đến 2500 lần. Để so sánh, thử nhìn vào một ứng viên đô con điển hình trong thời hiện đại là loài voi, với voi mẹ chỉ nặng hơn voi sơ sinh khoảng 22 lần. Nói cách khác, hậu duệ mới sinh của động vật hữu nhũ to lớn thì cũng đo có lí lý so với cha mẹ của chúng. Sự khác biệt đáng kinh ngạc về thân hình của khủng long mới nở và khủng long trưởng thành là do giới hạn về quy mô của trứng.
Nói cho cùng, trứng lớn tất nhiên phải có vỏ bọc dày để tránh bị đập tan trong cơ thể mẹ. Nhưng vỏ dày lại ngăn cản quá trình trao đổi ô xy của bào thai, nên trứng không thể nào vượt qua ngưỡng cho phép, khiến bào thai bên trong cũng hạn chế theo. Kết quả là khủng long con mới nở không thể nào to như con cái của động vật có vú đo được lớn. Bên cạnh đó, con của động vật có vú sinh sống trong giống nhau ổ sinh thái, tức cách sinh sống, với cha mẹ chúng. Do được chăm bón bằng sữa mẹ, chúng không gặp sự cản trở trở mấy trong quá trình diễn tiến. Tuy nhiên, sự kiện hoàn toàn khác biệt đối với hậu duệ của khủng long lớn.
Khi thảm họa diệt chủng xuất hiện cách đây 65,5 triệu năm, chỉ có những loài khủng long to nhất mới tồn tại được, trong khi các loài không quan trọng phải chịu cảnh tuyệt diệt. Điều này hình thành những khe nứt lớn trong chuỗi thức ăn, khiến khủng long chết dần mòn. Ngược lại, động vật có vú có thể hoàn thành trong mọi ổ sinh thái, và không ngừng sinh đẻ. Về trường hợp của khủng long chim, các chuyên gia cho rằng những loài khủng long này phải tìm mọi cách để kiếm ăn trong bức tranh bị làm cạnh tranh dữ dội từ đồng loại và động vật có vú. Kết quả là khả năng bay lượn của chúng ngày càng diễn tiến và thành thạo như chim chóc hiện giờ.