Bài báo khoa học trên tạp chí ở ngoài được Liên hiệp quốc xem như tiêu chí đánh giá suy nghĩ sáng tạo của một đất nước
![]() |
Báo cáo Đầu tư Thế giới 2005 của Liên Hợp Quốc |
Theo báo cáo hàng năm của Liên hợp quốc World Investment Report công bố thông 9/2005 (với chủ đề 2005 Transnational Corporation and the Internationalization of R&D), chỉ số suy nghĩ sáng tạo (innovation index) đó được đánh giá cho 117 đất nước trên thế giới.
Thay vì quĩ đầu tư cho R&D (input), số bài báo đăng trên các tạp chí khoa học ở ngoài (output) đó trở thành một cơ sở trong chỉ số phức hợp này. Việt Nam từ thứ 93/117 năm 1995 tiến đến vị trí 82/117 năm 2001, nhờ có thành tựu về sinh ra giáo dục. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn bị xếp vào tốp các nước còn kém cỏi, sau 2 nhóm nước có cấp độ cao và trung bình trên thế giới (gồm 78 nước).
Cho đến nay, bài báo đăng trên các tạp chí ở ngoài chưa được nghi lễ xem như một tiêu chí quan trọng cần phấn đấu trong quản lý khoa học ở nước nhà.
Song, với cách nghiền ngẫm nhận trên đây trong báo cáo của Liên hợp quốc, thiết tưởng ta cũng rất cần xem xét thành quả của mình trên sân vận động ở ngoài về khoa học trong mười năm qua, từ đó lấy ra bài học để cải thiện vị thế của mình về sau.
Theo linh hồn của báo cáo trên, dưới đây chỉ bàn đến những bài báo căn nguyên (article) xuất hiện trên 5.969 tạp chí đang có trong cơ sở dữ liệu Web of Science của ISI (Institute of Scientific Information) có trụ sở cơ quan tại Philadelphia, Mỹ, bao gồm hàng trăm chuyên khoa học thực nghiệm, công nghệ, xã hội, nhân đạo và nghiên cứu nghệ thuật. Tuy có thể chưa hoàn toàn đầy đủ, nhưng nó là hình ảnh toàn diện của một nền khoa học hiện đại.
Ngoài article, trong cơ sở dữ liệu ISI vẫn còn nhiều thể loại khác như letter, book review, meeting abstract…, nhưng sau đây ta chỉ qubảo đảm đến các articles, vì đó là những thành tựu nghiên cứu mới nhất được các nhà phát hành có danh tiếng xuất bản và được phản biện bởi các nhà bác học lừng danh nhất trong từng lĩnh vực.
Lác đác thấy có một số nhà phát hành ở Đài Loan, Trung Quốc, Cộng hoà Ấn Độ, Hàn Quốc. Nhưng có vẻ không có sẵn tạp chí nào xuất bản ở Việt Nam được lọt vào cơ sở dữ liệu này, ngay cả những tạp chí bằng tiếng Anh.
Còn quá ít bài báo ở ngoài có địa chỉ Việt nam
Hiện nay, hàng năm ước lượng có đến 800.000 bài báo thuộc 21 ngành KH&CN được cụng bố trên gần 6.000 tạp chí ở ngoài mà ISI đó tập hợp trong cơ sở dữ liệu của mình cựng với số lần dẫn chứng cho từng bài. Đứng đầu là Mỹ, khoảng 300.000 (vì con số quá lớn nên không thể thống kê thật chính xác), sau đó đến Nhật (75.000), và các nước tiên tiến có nền khoa học cổ xưa như Đức (66.000), Anh (59.000), Pháp (47.000) hoặc đông dân như Trung Quốc (57.000).
Mười năm qua (1995-2004), số bài báo có địa chỉ Việt Nam xuất hiện trên các tạp chí ở ngoài tăng từ 204 bài năm 1995 lên 456 bài năm 2004, cả thảy có 3.236 bài. Nhưng trong số này, hơn 2.400 bài (quá 3/4) là của các tác giả Việt Nam đứng chung tên với người ngoại quốc, chỉ có gần 800 bài là “thuần Việt”, được thực hiện chủ yếu bằng nguồn sức lực. Số lượng quá ít ái này lại cứ dẫm chân tại chỗ quanh con số 80 bài mỗi năm suốt thời gian qua (hình 1).
Hai ngành toán và vật lý lý thuyết chiếm 54% các bài báo dựng nguồn sức lực, đó là chưa kể những kiến trúc về toán có phần trong chuyên môn máy tính và cơ học. Số đông tác giả lao động tại Viện Toán (300 bài) và Trung tâm Vật lý lý thuyết (131 bài), thuộc Viện KH&CN Việt nam. Có 124 bài về Toán và 31 bài về vật lý lý thuyết lấy số nhà từ các trường đại học, đặc biệt từ những trường ít danh tiếng ở Quy nhơn, Thái nguyên v.v… Những con số này tuy rất ấn tượng, song vẫn chưa tương ứng với lực lượng đội ngũ giáo viên rất đông đảo ở nước nhà.
Số lần dẫn chứng trung bình của những bài báo dùng nguồn sức lực trong mười năm qua là 1,7 trong khi những bài báo do hợp tác với ngoại quốc lên đến 7,5. Có một nửa số bài báo dùng nguồn sức lực không được ai dẫn chứng
Chưa đầy một nửa còn lại thuộc về các ngành thực nghiệm, ứng dụng và công nghệ đòi hỏi công cụ, cơ sở vật chất và nhiều người tham dự.
Khác với kiến trúc lý thuyết, một kiến trúc khoa học thực nghiệm tiến hành ở Việt Nam thường gặp rất nhiều trở ngại vô tư, nên việc chen chân được trên các tạp chí ở ngoài phải xem như một thành công lớn. Vì thế, rất dễ hiểu tại sao ta có nhiều bài báo lý thuyết hơn thực nghiệm. Song, hình ảnh của ta khác hẳn với các nước xung quanh, nơi mà toán học và vật lý lý thuyết luôn đứng cuối bảng, phần đầu bảng thường là các khoa học thực nghiệm, ứng dụng và công nghệ có tác động trực tiếp đến đời sống và những ngành kinh tế thiết yếu của họ.
Chưa thấy dấu ấn của bước bứt phá tăng ngân sách khoa học từ năm 2000
Trong khi số lượng những bài báo do hợp tác với ngoại quốc tăng theo quy tắc hàm mũ, tăng gấp đôi sau 5,5 năm, thì kiến trúc do sức lực hầu như dẫm chân tại chỗ quanh con số 80 hàng năm. Đặc biệt, chưa thấy rõ dấu ấn của bước bứt phá tăng đầu tư cho KH&CN lên 2% ngân sách chính quyền bắt đầu từ năm 2000 (các nhà bác học cũng nên tự đặt dấu chấm hỏi cho trách nhiệm của mình trong vấn đề này).
Những con số trên đây tự nó nói lên hình ảnh hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) ở nước nhà. Những nhà quản lý chắc chắn sẽ lấy ra nhiều kết luận đúng đắn thêm vào vào lý lẽ của các chiến lược sắp sự thực thi về đổi mới cơ chế quản lý KH&CN.
Ai là những thợ viết?
Việt Nam đang có gần 20 nhà bác học mà mỗi người trong số đó công bố được hơn 10 kiến trúc trong mười năm (chưa kể bài báo đứng tên chung với người ngoại quốc và ấn phẩm của các hội nghị ở ngoài).
Một phần ba các “thợ viết” đó được đồng nghiệp dẫn chứng đáng kể, trung bình từ 3 đến 12 lần cho mỗi kiến trúc của họ. Họ là những đỉnh cao đang sung sức của khoa học Việt Nam, nhưng cũng chỉ vào loại “vừa vừa” trên thế giới. Xem những thông tin trên bảng 1 chắc nhiều người sẽ ngạc nhiên vì thấy ít ai nhắc đến họ.
Phạm Duy Hiển